Liên cầu khuẩn nhóm b là gì? Các công bố khoa học về Liên cầu khuẩn nhóm b

Liên cầu khuẩn nhóm B là một nhóm các vi khuẩn gồm Streptococcus agalactiae, được gọi là liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). GBS thường sống tự nhiên trong hệ tiêu hóa...

Liên cầu khuẩn nhóm B là một nhóm các vi khuẩn gồm Streptococcus agalactiae, được gọi là liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). GBS thường sống tự nhiên trong hệ tiêu hóa và âm đạo của một số phụ nữ. Mặc dù nhiều phụ nữ có GBS trong hệ thống miễn dịch không bị ảnh hưởng, nhưng trong một số trường hợp, GBS có thể gây nhiễm trùng và ảnh hưởng tới sức khỏe của mẹ và em bé. Đặc biệt, GBS có thể gây nhiễm trùng nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi, viêm màng não và viêm nhiễm trùng tiền sản. Việc xác định liệu một phụ nữ có GBS hay không thông qua việc xét nghiệm nhanh và quan sát triệu chứng là cần thiết để đưa ra quyết định về liệu pháp điều trị.
Liên cầu khuẩn nhóm B, hay còn được gọi là GBS, là một loại vi khuẩn Gram dương thuộc nhóm Streptococcus agalactiae. GBS thường tồn tại tự nhiên trong hệ tiêu hóa và âm đạo của một số phụ nữ, đồng thời có thể tìm thấy trong một số môi trường khác như nước, đất, môi trường nước ngọt và mặn.

Trong hầu hết các trường hợp, GBS không gây ra triệu chứng hoặc làm tổn thương sức khỏe của người mắc bệnh. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, GBS có khả năng gây nhiễm trùng và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của mẹ và em bé. Cụ thể, GBS có thể gây nhiễm trùng nhiễm khuẩn huyết (bacteremia), viêm phổi (pneumonia), viêm màng não (meningitis) và viêm nhiễm trùng tiền sản (chủ yếu là viêm tử cung, niêm mạc âm đạo và niêm mạc âm hộ).

Ở phụ nữ mang thai, nhiễm trùng GBS có thể được truyền từ mẹ sang thai nhi trong quá trình mang thai hoặc sinh đẻ, gây ra các biến chứng nguy hiểm hoặc thậm chí tử vong cho thai nhi. Do đó, các quy định y tế khuyến cáo xác định liệu một phụ nữ có GBS hay không và thực hiện phòng ngừa nhằm giảm nguy cơ nhiễm trùng cho thai nhi.

Quy trình xác định GBS thường được thực hiện bằng cách lấy mẫu từ niêm mạc âm đạo và hậu môn của phụ nữ mang thai trong giai đoạn 35-37 tuần. Mẫu được chuyển đến phòng thí nghiệm để kiểm tra sự hiện diện của GBS. Nếu kết quả dương tính, người phụ nữ sẽ được điều trị bằng kháng sinh như penicillin khi thụ tinh hoặc như một liệu pháp tiềm năng trước khi sinh.

Việc phát hiện và điều trị GBS là một phần quan trọng trong chăm sóc sức khỏe sinh sản và tránh các biến chứng tiềm ẩn liên quan đến vi khuẩn này.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "liên cầu khuẩn nhóm b":

Hoá miễn dịch của polysaccharide vỏ và đặc tính độc lực của type VI Streptococcus agalactiae (liên cầu khuẩn nhóm B) Dịch bởi AI
Infection and Immunity - Tập 61 Số 4 - Trang 1272-1280 - 1993

Đã tiến hành nghiên cứu hoá miễn dịch của polysaccharide vỏ và đặc tính độc lực của liên cầu khuẩn nhóm B (GBS), type VI. Bằng phương pháp sắc ký anion áp suất cao và điện áp kế xung, cũng như phân tích cộng hưởng từ hạt nhân 13C, cả các polysaccharide ngoại bào và gắn vào tế bào đều có chứa glucose, galactose và axit N-acetylneuraminic theo tỷ lệ mol là 2:2:1. Khác với tất cả các serotype GBS đã được mô tả đến nay (Ia, Ib, II, III, IV và V), không có N-acetylglucosamine hiện diện, bất kể nguồn gốc của chất liệu (tiết ra hoặc gắn vào tế bào; tham khảo hoặc phân lập lâm sàng). Axit sialic có lẽ liên quan đến cấu trúc xác định miễn dịch của serotype mới này vì việc cắt đường này ra khỏi polysaccharide đã tạo ra một kháng nguyên phản ứng rất yếu với kháng huyết thanh type VI và một dòng kết tủa trong mô hình khuếch tán miễn dịch không đồng nhất với polysaccharide type VI tự nhiên. Sử dụng kháng huyết thanh type VI và kỹ thuật protein A-vàng, một viên nang lớn đã được quan sát thấy ở chủng tham khảo GBS type VI qua kính hiển vi điện tử. Tất cả các chủng type VI được kiểm tra đều gây tử vong cho chuột nhắt CD-1, liều gây chết 50% sau khi thử thách trong phúc mạc dao động từ 1.0 (+/- 0.9, độ lệch chuẩn) x 10(5) đến 2.5 (+/- 1.5, độ lệch chuẩn) x 10(5) CFU mỗi con chuột. Kháng huyết thanh của thỏ chống lại polysaccharide vỏ cho thấy hoạt động bảo vệ đối với chuột tiêm trong phúc mạc với chủng tham khảo type VI hoặc với các phân lập lâm sàng, và hoạt động opsonic trong thí nghiệm thực bào.

#polysaccharide vỏ #liên cầu khuẩn nhóm B #type VI #hoá miễn dịch #độc lực #Streptococcus agalactiae #axit sialic #sắc ký anion #cộng hưởng từ hạt nhân #kháng huyết thanh #thực bào #kính hiển vi điện tử #dịch suyễn
Tỷ lệ mang liên cầu khuẩn nhóm B ở 35 – 37 tuần thai kỳ và hiệu quả của kháng sinh dự phòng lây nhiễm trước sinh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 18 Số 3 - Trang 19-26 - 2020
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thai kỳ mang liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) ở 35 – 37 tuần và đánh giá hiệu quả dự phòng lây nhiễm trước sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 1.574 thai phụ quản lý thai kỳ tại bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City từ 1/1/2019 đến 1/1/2020. Chẩn đoán thai kỳ mang GBS dựa vào nuôi cấy, phân lập và định danh vi khuẩn bằng mẫu dịch âm đạo ở thời điểm 35 - 37 tuần. Liệu pháp dự phòng lây nhiễm trước sinh được áp dụng theo khuyến cáo của CDC, kết quả thai kỳ được đánh giá đối với mẹ và trẻ sơ sinh. Kết quả: Tỷ lệ thai phụ mang GBS từ 35 - 37 tuần là 17,5% (95%CI: 15,5 - 19,7). 100% GBS nhạy cảm với các kháng sinh nhóm β-Lactam và Vancomycin, chỉ có 18,6% nhạy cảm với Clindamycin. Tất cả các thai kỳ mang GBS được dự phòng lây nhiễm trước sinh theo khuyến cáo CDC. Thai kỳ mang GBS có liên quan đến nguy cơ vỡ ối, rỉ ối ≤ 37 tuần (OR 2,7; 95%CI: 1,3 - 5,6; p = 0,010) và sinh non (OR 2,9; 95%CI: 1,8 - 4,7; p < 0,0001), tuy nhiên, không tăng nguy cơ mổ lấy thai, nhiễm trùng vết mổ và nhiễm trùng hậu sản. So với nhóm không mang GBS, thai kỳ mang GBS được dự phòng lây nhiễm trước sinh không tăng nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm (OR 1,3; 95%CI: 0,7 - 2,3; p = 0,431), kể cả ở nhóm theo dõi chuyển dạ (OR 1,6; 95%CI: 0,7 - 3,4; p = 0,239).  Kết luận: Tỷ lệ thai kỳ mang GBS trong thai kỳ tương đối cao. Thai kỳ mang GBS sử dụng liệu trình dự phòng lây nhiễm trước sinh không làm tăng nguy cơ kết quả thai kỳ bất lợi ở mẹ và nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm.
#Liên cầu khuẩn nhóm B #nhiễm trùng sơ sinh #liệu pháp kháng sinh dự phòng trước sinh #nhiễm trùng hậu sản
NGHIÊN CỨU TỶ LỆ NHIỄM LIÊN CẦU NHÓM B Ở THAI PHỤ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Mục tiêu nghiên cứu: xác định tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn (LCK) nhóm B và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ có thai từ 34-36 tuần tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội và xác định mức độ nhạy cảm của một số kháng sinh với nhiễm LCK nhóm B. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 220 thai phụ tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Các thai phụ có tuổi thai từ 34-36 tuần sẽ được lấy mẫu bệnh phẩm ở hai vị trí là 1/3 ngoài của âm đạo và ở trực tràng. Bệnh phẩm được gửi đến khoa Vi sinh trong vòng 3 giờ kể từ khi lấy mẫu để phân lập và định danh vi khuẩn. Thai phụ nhiễm LCK nhóm B sẽ được làm kháng sinh đồ, sau đó điều trị và theo dõi chuyển dạ đẻ theo đúng quy định. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm LCK nhóm B ở các thai phụ có tuổi thai từ 34-36 tuần trong thời giạn nghiên cứu là 13,2%. Trong nhóm có tiền sử sảy thai, tiền sử sảy thai có nguy cơ nhiễm liên cầu nhóm B gấp 4,36 lần so với nhóm không có tiền sử sảy thai lần nào (OR =4,36, 95% CI : 1,3-13,2). Tỷ lệ nhiễm LCK nhóm B ở nhóm thai phụ thụt rửa âm đạo chiếm 40,0% cao hơn so với nhóm không có thói quen vệ sinh này, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Độ nhạy cảm của Penicillin, Ampicillin, Augmentin, Ceftriaxone, Cefotaxime, Cefuroxim lần lượt là 86,21%, 79,31%, 89,66%, 65,52%, 65,52%, 72,41%. Liên cầu khuẩn nhóm B nhạy cảm với Vancomycin và Linezolid lần lượt là 72,41% và 89,66%. Kết luận: Tỷ lệ nhiễm LCK nhóm B ở các thai phụ có tuổi thai từ 34-36 tuần tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội là 13,2%. Có hai yếu tố là tiền sử sảy thai và thụt rửa âm đạo làm tăng nguy cơ nhiễm LCK nhóm B lên cao hơn lần lượt gấp 3,9 và 5,7 lần so với nhóm không có tiền sử này. Mức độ nhạy cảm kháng sinh của LCK nhóm B với Penicillin và Ampicillin còn tương đối cao và đây vẫn là hai kháng sinh ưu tiên sử dụng dự phòng cho các thai phụ nhiễm LCK nhóm B.
#liên cầu khuẩn nhóm B #phụ nữ có thai #nhạy cảm kháng sinh
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN VỚI NHIỄM LIÊN CẦU KHUẨN NHÓM B ĐƯỜNG SINH SẢN Ở PHỤ NỮ CÓ THAI TUẦN THỨ 35 ĐẾN TUẦN THỨ 37 TẠI NGHỆ AN (2019)
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 3 - 2022
Nghiên cứu ngang mô tả có phân tích tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An năm 2019 ở phụ nữ có thai. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm và một số yếu tố liên quan nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B - Group B Streptococcus (GBS) đường sinh sản ở phụ nữ có thai tuần thứ 35 đến tuần thứ 37 tuần tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An năm 2019. Đối tượng nghiên cứu: 750 phụ nữ có thai tuần thứ 35 đến tuần thứ 37 tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An, với các kỹ thuật thăm khám lâm sàng, phỏng vấn thai phụ, nuôi cấy vi khuẩn trong môi trường chọn lọc GBS và CAM test. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ nhiễm GBS ở phụ nữ có thai 35 - 37 tuần tại Nghệ An 2018 bằng nuôi cấy vi khuẩn trong môi trường chọn lọc là 9,2%(69/750). Các yếu tố được xác định có liên quan đến tình trạng nhiễm GBS ở thai phụ gồm: Sử dụng nguồn nước không hợp vệ sinh (OR = 1,86, 95%CI (1,36 - 4,59, p < 0,05); Thực hành vệ sinh không đúng cách: OR = 1,74, 95%CI (1,16 - 4,36), p < 0,05; Có tiền sử nhiễm GBS lần mang thai trước 1,98, 95%CI (1,64 - 4,15), p < 0,05; Không có thói quen rửa vệ sinh âm hộ hằng ngày OR = 3,0, 95%CI(1,42 - 7,59), p < 0,05.
#Phụ nữ có thai; đường sinh sản; Group B Streptococcus.
Nghiên cứu tình hình nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B ở phụ nữ có thai từ 36 tuần
Tạp chí Phụ Sản - Tập 21 Số 2 - Trang 34-40 - 2023
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ và đánh giá kết quả kết thúc thai kỳ các thai phụ nhiễm liên cầu nhóm B. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 302 thai phụ quản lý thai kỳ tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang từ 02/2020 đến 02/2021. Chẩn đoán thai kỳ mang GBS dựa vào nuôi cấy, phân lập và định danh vi khuẩn bằng mẫu dịch âm đạo ở thời điểm trên 36 tuần. Liệu pháp dự phòng lây nhiễm trước sinh được áp dụng theo khuyến cáo của CDC. Kết quả thai kỳ được đánh giá đối với mẹ và trẻ sơ sinh. Kết quả: Tuổi thai trung bình ở nhóm thai phụ nhiễm GBS là 39,2 ± 0,8 tuần. Thời gian chuyển dạ < 12 giờ ở nhóm thai phụ nhiễm GBS chiếm phần lớn với 87,0%. Tỷ lệ sinh qua ngã âm đạo và sinh mổ ở nhóm thai phụ nhiễm GBS lần lượt là 65,2% và 34,8%. Trong 35/302 trường hợp sử dụng kháng sinh dự phòng GBS theo phác đồ, có 23 trường hợp nhiễm GBS (+) chiếm 65,8%. Nghiên cứu chưa ghi nhận nhiễm trùng hậu sản trên nhóm sản phụ nhiễm GBS. Trọng lượng thai ≥ 3000 gr chiếm chủ yếu với tỷ lệ 73,9%. Không có trẻ nhẹ cân (< 2500 gr). Vàng da là tình trạng phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh có thai phụ nhiễm GBS chiếm tỷ lệ 13,0%, tiếp theo là nhiễm trùng sơ sinh và suy hô hấp với tỷ lệ lần lượt là 8,7% và 4,3%. Kết luận: Thai kỳ mang GBS sử dụng liệu trình dự phòng lây nhiễm trước sinh không làm tăng nguy cơ kết quả thai kỳ bất lợi ở mẹ và trẻ sơ sinh.
#liên cầu khuẩn nhóm B #nhiễm trùng sơ sinh #nhiễm trùng hậu sản #liệu pháp kháng sinh dự phòng trước sinh
Hệ thống in vitro để điều tra các tương tác giữa liên cầu nhóm B và tế bào chủ cũng như ma trận ngoại bào Dịch bởi AI
Methods in Cell Science - - 1998
Streptococcus agalactiae hay liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) là những vi khuẩn cầu gram dương và là nguyên nhân chính gây nên viêm phổi, nhiễm trùng huyết và viêm màng não ở trẻ sơ sinh. Nhiễm trùng GBS ở trẻ sơ sinh có thể xảy ra trước hoặc trong khi sinh. GBS đã được nuôi cấy từ màng ối của các bà bầu và vì vậy đã được liên kết với viêm màng ối và chuyển dạ sớm. Một con đường tiềm năng để GBS gây nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh là xâm nhập vào màng nhau thai của các bà bầu đã bị nhiễm. Trong phòng thí nghiệm của chúng tôi, chúng tôi đã xây dựng các hệ thống in vitro để mô phỏng một số sự kiện trong quá trình định cư và xâm nhập của GBS vào mô tế bào biểu mô của chủ. Bằng cách sử dụng các kỹ thuật để phát triển các văn hóa nguyên sơ của cả tế bào màng ối và tế bào ối được tách từ nhau thai của phụ nữ sinh mổ, chúng tôi đã thiết lập được một mô hình phù hợp để điều tra một số khía cạnh của sự bám dính và xâm nhập của GBS vào màng nhau thai. Để xác định các phân tử liên quan cần thiết cho GBS để định cư vào nhiều mô mà chúng gặp phải trong quá trình nhiễm trùng, chúng tôi đã áp dụng đa dạng các phương pháp sinh hóa với các chế phẩm màng tế bào chủ cũng như các protein ma trận ngoại bào tinh khiết. Những kỹ thuật này đang cho phép chúng tôi tiếp tục mô tả các cơ chế gây bệnh được GBS sử dụng.
#Streptococcus agalactiae #liên cầu khuẩn nhóm B #viêm phổi #nhiễm trùng huyết #viêm màng não #trẻ sơ sinh #xâm nhập #màng nhau thai #ma trận ngoại bào.
Nhiễm trùng liên cầu khuẩn nhóm A do các chủng emm1 ở trẻ em tại miền nam Đài Loan Dịch bởi AI
European Journal of Clinical Microbiology and Infectious Diseases - Tập 27 - Trang 1253-1256 - 2008
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định đặc điểm dịch tễ học phân tử của các nhiễm trùng liên cầu khuẩn nhóm A xâm lấn và không xâm lấn ở trẻ em từ năm 1997 đến năm 2004 tại miền nam Đài Loan. Một bộ sưu tập gồm 32 mẫu xâm lấn và 150 mẫu không xâm lấn đã được tập hợp để phân tích. Các chủng emm1 (34,4%) và emm12 (40,0%) chiếm ưu thế ở các mẫu xâm lấn và không xâm lấn, tương ứng. Tỷ lệ mắc nhiễm trùng liên cầu khuẩn nhóm A xâm lấn (IGASI) đạt đỉnh vào khoảng năm 2002 đến 2003. Emm4 và emm12 là các loại chủ yếu trong các mẫu lâm sàng trước năm 2001 và đã được thay thế bởi emm1 trong giai đoạn 2002–2003. Tất cả các mẫu emm1 đều có mối quan hệ đồng loại. Tỷ lệ kháng erythromycin giảm đã xảy ra trong sự chuyển đổi chính từ các mẫu lưu hành sang các chủng emm1 trong giai đoạn 2002–2003 trong cộng đồng.
#nhiễm trùng liên cầu khuẩn nhóm A #trẻ em #Đài Loan #dịch tễ học phân tử #emm1 #emm12 #kháng thuốc
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH NHIỄM LIÊN CẦU KHUẨN NHÓM B (GBS) VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN THAI PHỤ TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN THÀNH PHỐ CẦN THƠ NĂM 2023
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 76 - Trang 1-8 - 2024
Đặt vấn đề: Liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) là một trong nhiều loại vi khuẩn thường trú trong cơ thể người, thường không gây bệnh cho người trưởng thành nhưng lại có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm thậm chí tử vong ở trẻ sơ sinh. Vì thế tình hình nhiễm GBS ở thai phụ và các yếu tố liên quan cần được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ nhiễm GBS ở thai phụ và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ năm 2023. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 194 phụ nữ mang thai từ 28-38 tuần thai, có chỉ định làm xét nghiệm GBS đồng ý tham gia nghiên cứu tại Bệnh viện Phụ Sản Thành phố Cần Thơ từ tháng 05 đến tháng 09/2023. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B ở thai phụ tại Bệnh viện Phụ Sản Thành phố Cần Thơ là 26,3%. Khu vực sống ở nông thôn (OR=2,06; p=0,037), bệnh lý nền (OR=5,07; p=0,031), không mắc viêm âm đạo (OR=3,42; p=0,007), đang điều trị viêm âm đạo (OR=6,13; p=0,032) và có bạch cầu trong nước tiểu (OR=6,16; p=0,046) là các yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm GBS ở thai phụ. Kết luận: Tỷ lệ nhiễm GBS ở thai phụ cao. Các yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm GBS là nơi ở (nông thôn), có bệnh lý nền, không mắc viêm âm đạo, đang điều trị viêm âm đạo, hiện diện của bạch cầu trong nước tiểu.  
#Thai phụ #GBS #viêm âm đạo #nông thôn
Tình trạng nhiễm liên cầu khuẩn nhóm b ở phụ nữ có thai từ 34 – 36 tuần tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 2A - Trang 92-94 - 2015
Đặt vấn đề: Với mục tiêu xác định mức độ nhạy cảm của một số kháng sinh với nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B trên thai phụ, chúng tôi tiến hành lấy bệnh phẩm tại âm đạo và trực tràng của 220 thai phụ có tuổi thai tử 34 – 36 tuần khám, quản lý thai tại BVPS Hà Nội rồi nuôi cấy trong môi trường Todd Hewit. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả. Kết quả và kết luận: Tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B ở các thai phụ tuổi thai từ 34-36 tuần là 13,2%. Mức độ nhạy cảm của kháng sinh nhóm β lactam: Penicillin, Ampicillin, Augmentin, Ceftriaxone, Cefotaxime, Cefuroxim lần lượt là 86,21%, 79,31%, 89,66%, 65,52%, 65,52%, 72,41%. Trong đó Penicillin, Ampicillin vẫn là những loại kháng sinh khá là nhạy cảm với liên cầu khuẩn nhóm B và được ưu tiên lựa chọn.
#Liên cầu khuẩn Streptocoque B #Mang thai
Đái tháo đường thai kỳ tăng tỷ lệ mang liên cầu khuẩn nhóm B
Tạp chí Phụ Sản - Tập 19 Số 2 - Trang 54-60 - 2021
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ và liên quan đến nguy cơ mang liên cầu khuẩn nhóm B tại thời điểm 35 - 37 tuần. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ, tiến cứu trên 1.574 sản phụ quản lý thai kỳ tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City từ 01/2019 - 01/2020. Sàng lọc và chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ bằng nghiệm pháp dung nạp 75 gram glucose - 2 giờ tại thời điểm 24 - 28 tuần, liên cầu khuẩn nhóm B được xét nghiệm bằng mẫu dịch âm đạo khi thai 35 - 37 tuần. Tất cả thai phụ được quản lý đến kết thúc thai kỳ. Kết quả: Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ là 6,2% (98/1.574), nhóm đái tháo đường thai kỳ có tỷ lệ mang liên cầu khuẩn nhóm B tại thời điểm 35 - 37 tuần cao hơn nhóm không bị đái tháo đường, 34,7% so với 16,3%, p < 0,0001. Sản phụ bị đái tháo đường thai kỳ kèm mang liên cầu khuẩn nhóm B tăng nguy cơ sinh non (OR 4,9; 95%CI: 1,8 - 13,3), mổ lấy thai (OR 4,1; 95%CI: 1,7 - 9,9), tăng nguy cơ trẻ sơ sinh cần nhập Đơn vị chăm sóc tích cực (OR 2,9; 95%CI: 1,0 - 8,6) và nguy cơ hạ đường huyết sơ sinh (OR 3,2; 95%CI: 1,1 - 9,3). Tuy nhiên, chưa phát hiện liên quan đến tỷ lệ nhiễm trùng sơ sinh sớm, tỷ lệ trẻ sơ sinh ngạt. Kết luận: Đái tháo đường thai kỳ tăng tỷ lệ mang liên cầu khuẩn nhóm B tại thời điểm 35 - 37 tuần thai kỳ.
#Đái tháo đường thai kỳ #liên cầu khuẩn nhóm B #thai nghén nguy cơ cao
Tổng số: 12   
  • 1
  • 2